Tác phẩm: "Sửa đổi lối làm việc" |
Nhân kỉ niệm 125 năm
ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, mình xin trích một đoạn ngắn trong tác phẩm “Sửa
đổi lối làm việc”, mong rằng qua đoạn trích này chúng ta sẽ nhận thấy một con
người, một nhân cách lớn, một tâm hồn lớn luôn nghĩ cho mọi người. Bên cạnh đó,
chúng ta cũng nhìn thấy một phần con người mình trong ấy, sửa đổi và hoàn thiện
mình hơn nữa…
“5. Những khuyết điểm sai lầm
Trong Đảng ta còn có những ngươi chưa học
được, chưa làm được bốn chữ "chí công vô tư", cho nên mắc phải chứng
chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng
rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm, thí dụ những bệnh sau
đây:
a) Bệnh tham lam - Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi
ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ "tự tư tự lợi". Dùng của công
làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình.
Sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi. Tiền bạc đó ở đâu ra? Không xoay của Đảng thì xoay của đồng bào.
Thậm chí làm chợ đen buôn lậu. Không sợ
mất thanh danh của Đảng, không sợ mất danh giá của mình.
b) Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì tranh lấy cho mình. Việc khó thì đùn cho
người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách để trốn tránh.
c) Bệnh kiêu ngạo - Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. ưa người ta tâng bốc mình, khen
ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe
khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thêm học hỏi quần chúng,
không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thay người khác.
d) Bệnh hiếu danh - Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc
không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung
lay. Những người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà
không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công
tác thiết thực.
đ) Thiếu kỷ luật - Đã mắc bệnh cá nhân thì tư tưởng và hành động cũng đặt cá nhân lên trên.
Vì thế mà việc gì cũng không lấy Đảng làm nền tảng. Mình muốn thế nào thì làm
thế ấy, quên cả kỷ luật của Đảng.
Phê bình thì cốt công kích những đồng chí
mình không ưa. Cất nhắc thì cốt làm ơn với những ngươi mình quen thuộc.
e) Óc hẹp hòi - Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta
hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn
khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo
đức tài năng ở ngoài Đảng. Vì thế mà người ta uất ức và mình thành ra cô độc.
g) Óc địa phương - Bệnh
này tuy không xấu bằng các bệnh kia nhưng kết quả cũng rất tai hại. Miễn là cơ
quan mình, bộ phận mình, địa phương mình được việc. Còn các cơ quan, bộ phận,
địa phương khác ra sao cũng mặc kệ. Đó là vì cận thị, không xem xét toàn thể.
Không hiểu rằng lợi ích nhỏ phải phục tùng
ích lợi to, ích lợi bộ phận phải phục tùng ích lợi toàn thể.
h) Óc lãnh tụ - Đánh được vài trận, hoặc làm được vài việc gì ở địa phương đã cho
mình là tài giỏi lắm rồi, anh hùng lắm rồi, đáng làm lãnh tụ rồi.
Nào có biết so với công cuộc giải phóng cả
dân tộc thì những thành công đó chỉ là một chút cỏn con, đã thấm vào đâu. Mà so
với những sự nghiệp to tát trong thế giới, cũng không thấm vào đâu.
Cố nhiên, Đảng ta mong cho có nhiều anh
hùng, nhiều lãnh tụ, được dân tin, dân phục, dân yêu.
Những anh hùng và lãnh tụ như thế là của
quý của Đảng, của dân tộc. Song, những anh hùng và lãnh tụ như thế đều do tranh
đấu và kinh nghiệm rèn luyện ra, đều do dân chúng và đảng viên tin cậy mà cử ra,
chứ không phải tự mình muốn làm lãnh tụ, làm anh hùng mà được.
Từ xưa đến nay, quần chúng không bao giờ
tin cậy và yêu mến những kẻ tự cao, tự đại, những kẻ có óc lãnh tụ, tự xưng ta
đây là anh hùng, lãnh tụ.
Đem so với công việc của cả loại người
trong thế giới, thì những người đại anh hùng xưa nay cũng chẳng qua làm tròn
một bộ phận mà thôi. Mỗi người chúng ta cố làm đầy đủ những công việc Đảng giao
phó cho, thế là ta làm tròn nhiệm vụ, và lòng tự hào đó giúp cho ta tiến bộ
mãi.
6. Những bệnh khác
a) Bệnh "hữu danh, vô thực" - Làm việc không thiết thực, không từ chỗ gốc, chỗ chính, không từ
dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi. Làm được ít suýt ra nhiều, để làm
một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ lại thì rỗng tuếch.
Thí dụ việc tổ chức - Trong báo cáo thì
làng nào, huyện nào, tỉnh nào cũng có. Hạng người nào cũng có. Có hàng vạn hàng
ức người. Nhưng khi soạn lại cặn kẽ, hỏi lại rõ ràng, những nơi đó có bao nhiêu
người, những tổ chức đó đã làm việc gì, cán bộ đã đến đó mấy lần, đã làm gì cho
những tổ chức đó, thì chưa có gì thiết thực hết.
Thế là không làm tròn nhiệm vụ của mình.
Thế là dối trá với Đảng, có tội với Đảng. Làm việc không thiết thực, báo cáo
không thật thà, cũng là một bệnh rất nguy hiểm.
b) Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa.
Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với
mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho
nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu,
việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó
xuống.
Bệnh này rất tai hại cho Đảng. Nó làm hại
đến sự mất thân ái, đoàn kết giữa đồng chí. Nó gây ra những mối nghi ngờ.
c) Bệnh cận thị - Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà
chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ. Thí dụ: việc tăng gia sản xuất, việc tiếp tế bộ
đội thì không lo đến, mà chỉ lo thế nào để lợi dụng cơm cháy và nước gạo trong
các bộ đội.
Những người như vậy, chỉ trông thấy sự lợi
hại nhỏ nhen mà không trông thấy sự lợi hại to lớn.
d) Bệnh "cá nhân".
1. Việc gì không phê bình trước mặt để nói
sau lưng. Khi khai hội thì không nói, lúc khai hội rồi mới nói. Không bao giờ
đề nghị gì với Đảng. Không theo nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Muốn sao làm
vậy.
2. Muốn làm xong việc, ai có ưu điểm cũng
không chịu học theo, ai có khuyết điểm cũng không dám phê bình.
3. Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân
theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình.
4. Khi phê bình ai, không phải vì Đảng,
không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà chỉ công kích cá nhân, cãi
bướng, trả thù, tiểu khí.
5. Nghe những lời bình luận không đúng,
cũng làm thinh, không biện bác. Thậm chí nghe những lời phản cách mạng cũng
không báo cáo cho cấp trên biết. Ai nói sao, ai làm gì cũng mặc kệ.
6. Gặp dân chúng thì không điều tra, không
hỏi han, không tuyên truyền, không giải thích. Xem như dân chúng không có quan
hệ gì với mình.
7. Thấy những việc có hại đến dân chúng
cũng mặc kệ, không khuyên răn, không ngăn cản, không giải thích.
8. Làm việc không có kế hoạch, gặp sao làm
vậy, làm lấy lệ, làm không có ngăn nắp, làm không đến nơi đến chốn.
9. Tự cho mình là "cách mạng
già", "cách mạng cũ"; việc to làm không nổi, việc nhỏ không chịu
làm. Làm việc thì lờ mờ, học hành thì biếng nhác.
10. Biết mình có khuyết điểm, nhưng không
chịu cố gắng sửa đổi.
Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch
xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ.
Chính sách không thi hành được triệt để,
Đảng xa rời dân chúng.
Mắc phải bệnh đó thì dễ đi đến chỗ để lợi
ích cá nhân lên trên, để lợi ích Đảng và dân tộc xuống dưới.
Một người cách mạng bao giờ cũng phải
trung thành, hăng hái, xem lợi ích của Đảng và dân tộc quý hơn tính mệnh của
mình. Bao giờ cũng quang minh chính trực, ham cách sinh hoạt tập thể, luôn luôn
săn sóc dân chúng, giữ gìn kỷ luật, kiên quyến chống lại "bệnh cá nhân”.
đ) Bênh lười biếng. Khi tiếp được
mệnh lệnh hoặc nghị quyết, không chịu nghiên cứu rõ ràng. Không lập tức đưa
ngay mệnh lênh và nghị quyết đó cho cấp dưới, cho đảng viên, cho binh sĩ. Cứ
xếp lại đó.
Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không
hoạt bát nhanh chóng.
Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không
sốt sắng không đến nơi đến chốn.
Kết quả nhỏ là: nghị quyết đầy túi áo,
thông cáo đầy túi quần.
Kết quả nặng là: phá hoại tổ chức của
Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm,
khi làm thì trễ rồi.
Đó là vì tính lười biếng, chậm chạp. Vì
không hiểu rằng: Đảng cũng như thân thể một con người. Mệnh lệnh và nghị quyết
cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khỏe. Mạch
máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và
Nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng
xong xuôi Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp đó trở xuống là tê liệt không biết đường
nào mà công tác.
Cách chữa:
- Các cơ quan chỉ đạo phải có cách lãnh
đạo cho đúng. Mỗi việc gì đều phải chỉ bảo cách làm.
- Cấp trên phải hiểu rõ tình hình cấp dưới
và tình hình quần chúng, để chỉ đạo cho đúng.
- Khi nghị quyết việc gì, phải cẩn thận,
rõ ràng. Khi đã quyết nghị thì phải kiên quyết thi hành.
Mỗi nghị quyết phải mau chóng truyền đến
các cấp dưới, đến đảng viên, đến dân chúng.
Cách tiện nhất là khai hội với các đảng
viên, khai hội với dân chúng (hoặc binh sĩ), phải thảo luận những mệnh lệnh và
nghị quyết đó cho rõ ràng, - hiểu thấu ý nghĩa của nó và định cách thi hành cho
đúng.
- Cấp dưới phải báo cáo. Cấp trên cần phải
kiểm soát.
e) Bệnh tị nạnh - Cái gì cũng muốn "bình đẳng".
Thí dụ: Cấp trên vì công việc phải cưỡi
ngựa, đi xe. Cấp dưới cũng muốn cưỡi ngựa, đi xe.
Người phụ trách nhiều việc, cần có nhà
rộng. Người không phụ trách nhiều việc, cũng đòi nhà rộng.
Phụ cấp cho thương binh cũng muốn nhất
luật, không kể thương nặng hay nhẹ.
Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu
đều làm bằng nhau. Có việc một người làm cũng được, nhưng cũng chờ có đủ mọi
ngươi mới chịu làm.
Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình
đẳng.
Không hiểu rằng: người khỏe gánh nặng,
người yếu gánh nhẹ. Người làm việc nặng phải ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn
ít. Thế là bình đẳng.
Cách chữa: - Giải thích cho họ hiểu: đồng
cam cộng khổ là một điều rất hay, rất tốt. Nhất là trong lúc cái gì cũng còn
túng thiếu, và mỗi đảng viên, mỗi cán bộ cần phải làm kiểu mẫu trong sự cần
lao, tiết kiệm.
Nhưng cũng phải tùy theo hoàn cảnh. Cái gì
thái quá cũng không tốt. Bình đẳng thái quá cũng không tốt.
Thí dụ: nếu một chiến sĩ bị thương được đi
xe, ăn ngon, các chiến sĩ khác đều đòi đi xe, đòi ăn ngon.
Hoặc vì bình đẳng mà bắt buộc một trẻ em
cũng ăn nhiều cũng gánh nặng, như một người lớn. Nếu như thế là bình đẳng, thì
bình đẳng đó rất vô lý, rất xấu, chúng ta phải kiên quyết chống lại thứ bình
đẳng đó.
Sợ mất oai tín và thể diện mình, không dám
tự phê bình.
Lại nói: nếu phê bình khuyết điểm của
mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ, thì địch sẽ lợi dụng mà công
kích ta.
Nói vậy là lầm to. Khuyết điểm cũng như
chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu
bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết
"cũng la lết quả dưa".
Nói về từng người, nể nang không phê bình,
để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc.
Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà
không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của
mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình!
Nói về Đảng, một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình,
vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra
khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới
là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết
điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng.
Sợ phê bình, tức là "quan liêu
hóa", tức là tự mãn tự túc, tức là "mèo khen mèo dài đuôi".
Phê bình không phải để công kích, để nói
xấu, để chửi rủa.
g) Bệnh xu nịnh, a dua - Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu.
Thấy xôi nói xôi ngọt thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí
khái.
Còn bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, bệnh
nóng tính, bệnh lụp chụp, v.v., đã nói qua, đây không nhắc nữa.
7. Những khuyết điểm sai lầm vì sao mà có
và từ đâu mà đến?
Khuyết điểm đâu mà nhiều thế?
Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ
các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên
quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết,
những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng.
Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy
rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa.
Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật
thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố
gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực
phê bình và tự phê bình.
Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc.
Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng
viên và cán bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng
phát triển.
Mong ai nấy đều phải thiết thực sửa đổi.
Đảng ta là một tổ chức rất tiến bộ, đã có những thành tích rất vẻ vang. Trong
Đảng ta, gồm có những người có tài, có đức. Phần đông những người hăng hái
nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất đều ở trong
Đảng ta. Chúng ta chắc chắn đi đến thắng lợi và thành công.
Tuy vậy, không phải là người người đều
tốt, việc việc đều hay. Trong Đảng ta chưa hoàn toàn tránh khỏi một vài kẻ vu
vơ, những việc không chính đáng, như vừa kể trên.
Cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không
thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không
tốt kia, cũng không thể giấu.
Quần chúng luôn luôn liên lạc với Đảng ta.
Những người hăng hái đồng tình với Đảng ta, hoặc tham gia Đảng ta. Họ chẳng
những trông thấy những người tốt, việc tốt mà họ cũng trông thấy những người
xấu, việc xấu trong Đảng. Họ sẽ ngơ ngác mà hỏi "Đảng này là Đảng tốt,
đảng viên đều là người tốt, vì sao lại có những người vu vơ, những việc mờ tối
như thế nhỉ?".
Câu hỏi đó làm cho chúng ta càng thêm chú
ý, làm cho đảng viên và cán bộ phải cẩn thận giữ mình, và cẩn thận săn sóc, dắt
díu những người cảm tình, những đảng viên mới, chớ để họ bị ảnh hường xấu. Đồng
thời, chúng ta phải trả lời câu hỏi đó cho đúng. Nếu không thì người ta sẽ thất
vọng và bi quan.
Trả lời thế nào? Rất là giản đơn, dễ hiểu:
Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó
ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những
phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu
ngạo, xa hoa, v.v.. Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ.
Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng.
Cũng như những người hàng ngày lội bùn, mà
trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái? Vì lội bùn
thì nhất định có hơi bùn. Cần phải tắm rửa lâu mới sạch.
Trái lại, nếu lội bùn mà không có hơi bùn,
mới thật là kỳ quái. Nếu trong Đảng ta, một đảng mới từ trong xã hội cũ bước
ra, nếu nó hoàn toàn không có những người xấu, việc xấu như thế mới là kỳ quái
chứ! Cố nhiên nói thế không phải là để tự bào chữa.
Đảng một mặt phải làm công việc giải phóng
dân tộc một mặt phải giáo dục đảng viên và cán bộ, kiên quyết cảm hóa những
phần tử xấu, sửa chữa những thói xấu còn lại. Phải cố sửa chữa cho tiệt nọc các
chứng bệnh, khiến cho Đảng càng mạnh khỏe, bình an.
8. Cách đối với các khuyết điểm
Vì Đảng rất to, người rất đông; mỗi hạng
người lại có thói quen, tính nết, trình độ, tư tưởng, nhận xét khác nhau. Nhất
là khi phong trào cách mạng càng sôi nổi, hoàn cảnh càng khó khăn, thì sự khác
nhau đó càng rõ rệt, càng trở nên gay go.
Nên giải quyết những mối mâu thuẫn đó thế
nào?
Có người thì cho rằng: trong Đảng việc gì
cũng tốt, không có khuyết điểm gì đáng lo. Có người lại cho rằng: trong Đảng
cái gì cũng kém, đầy những khuyết điểm. Vì vậy mà họ bi quan, thất vọng. Hai
cách nhận xét đó đều không đúng.
Sự thật là: Đảng ta rất tiên tiến, rất vẻ
vang. Nhưng nội bộ vẫn còn những sai lầm và khuyết điểm. Đồng thời, chúng ta
thấy cái nguồn gốc của những sai lầm khuyết điểm đó, và chắc tìm được cách sửa
chữa.
Chúng ta quyết tâm công tác thêm, để làm
cho Đảng tiến bộ thêm mãi.
Thái độ mỗi người đối với những khuyết
điểm của Đảng ta cũng khác nhau.
Bọn phản động thì lợi dụng những khuyết
điểm đó và tô vẽ thêm để phá hoại Đảng ta.
Lợi dụng những sai lầm và khuyết điểm đó,
để đạt mục đích tự tư tự lợi của họ. Đó là thái độ của đảng viên và cán bộ đầu
cơ.
Bọn thứ ba thì sao cũng mặc kệ, sao xong
chuyện thì thôi. Không phê bình, không tự phê bình. Đó là thái độ của những
đảng viên và cán bộ ươn hèn yếu.
Bọn thứ tư thì đối với những người có
khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi
bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu Đảng không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi,
hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa
hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó
cũng là bệnh "chủ quan".
Thái độ thứ năm, là thái độ đúng. Tức là:
a) Phân tách rõ ràng, cái gì là đúng, cái
gì là sai.
b) Không chịu nổi ảnh hưởng của những chủ
trương sai lầm, những phần tử không tốt. Ra sức học tập và nâng cao những kiểu
mẫu tốt.
c) Không để mặc kệ. Mà ra sức tranh đấu
sửa chữa những khuyết điểm, không để nó phát triển ra, không để nó có hại cho
Đảng.
d) Không làm cách máy móc. Nhưng khéo dùng
cách phê bình và tự phê bình để giúp đồng chí khác sửa đổi những sai lầm và
khuyết điểm, giúp họ tiến bộ.
đ) Đoàn kết Đảng bằng sự tranh đấu nội bộ
. Nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.
Bọn phản động và bọn đầu cơ là địch nhân
lọt vào trong Dảng để phá hoại. Vì vậy chúng ta phải ra sức để phòng. Mỗi khi
trong Đảng có khuyết điểm thì chúng ta phải tìm cách chở để cho ai lợi dụng. Đó
là phận sự của mỗi một đảng viên chân chính.
Thái độ thứ ba, ai mặc kệ ai, cố nhiên
cũng không đúng. Tuy vậy, trong Đảng, còn có nhiều người giữ thái độ đó nhất là
khi cấp dưới đối với cấp trên. Thái độ đó thường sinh ra thói "không nói
trước mặt, hục hặc sau lưng". Nó gây nên sự uất ức và không đoàn kết trong
Đảng. Nó để cho bọn vu vơ có thể chui vào hoạt động trong Đảng. Nó để cho
khuyết điểm ngày càng chồng chất và phát triển ra.
Nếu theo thái độ thứ tư thì Đảng chỉ còn
một nhóm cỏn con, vì số đông sẽ bị khai trừ hết. Mà chính những người có thái
độ đó cũng bị khai trừ, vì họ đã phạm cái khuyết điểm hẹp hòi.
Kết luận - Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán
bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn
luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định
hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi.”
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” từ khi hoàn thành (tháng 10 năm 1947) đến
nay đã hơn 65 năm. Ấy vậy mà thử nhìn lại khoảng thời gian ấy, chúng ta đã làm
được những gì, chưa làm được những gì thì quả thực thật còn đáng xấu hổ lắm. Câu
chuyện về sự đoàn kết, thống nhất, trên dưới một lòng, có lẽ phải đợi thêm một
khoảng thời gian nữa để chúng ta có thể tự giáo dục mình và học tập theo chăng?
Nguồn: Thư pháp Thanh Phong
Nguồn: Thư pháp Thanh Phong