CHỮ QUỐC NGỮ AI XỨNG ĐÁNG ĐẶT TÊN?

Mời mọi người đọc bài viết của bạn Mạc Thiên Di. Hơi dài nhưng đáng đọc

Người ta đã lãng quên mất 1 người (mà tôi nhắc đến tên chắc hẳn đa số người đọc phải google mới biết) đó là học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882 -1963) (ảnh 1)
Nguyễn Văn Vĩnh

Các bạn biết ông ấy là ai chứ?
Bao nhiêu người Việt Nam còn nhớ đến ông ấy?
Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày lý do tại sao tôi cho rằng con đường đó cần phải đặt tên là Nguyễn Văn Vĩnh vì sự biết ơn vô cùng với những di sản trí tuệ, tri thức ông để lại .
Hy vọng sau khi đọc xong, dù các bạn có hay không đồng tình vẫn sẽ xuất hiện thêm nhiều người biết đến công lao của vị học giả này trong việc ngày nay tôi và các bạn đang giao tiếp bằng chữ quốc ngữ.
( bài viết RẤT DÀI, ai không thực sự quan tâm xin mời DỪNG ĐỌC và lướt qua)
(Có sử dụng dẫn chứng bài viết và tư liệu của Chungta, Tannamtu và Tia sáng)

Phần I : Hoàn cảnh ra đời chữ quốc ngữ

--------------------------
Lội ngược dòng thời gian, chúng ta quay lại khoảng giữa thế kỷ 19, khi đó nước Pháp với chủ nghĩa thực dân thực hiện chủ trương mở rộng và tìm kiếm thuộc địa mới, họ đã tiến vào đất nước ta bắt đầu từ khu vực phía Nam. Muôn vàn khó khăn của kẻ đi chinh phục một miền đất mới là lẽ đương nhiên và khó khăn lớn nhất đối với bất kỳ một kẻ ngoại xâm nào, đó sẽ là việc chinh phục ngôn ngữ và văn hóa của người dân bản xứ.
Kết quả của một cuộc viễn chinh, cái cuối cùng phải đạt được để được gọi là thắng lợi, đó là việc THÔN TÍNH, ĐỒNG HÓA được nền văn minh của đối phương, chứ không phải chỉ là đất đai và tài nguyên.

Từ những nguyên tắc thông thường này, trong suốt gần 50 năm cuối thế kỷ 19, chính quyền thực dân đã thực sự lúng túng và căng thẳng trong việc lựa chọn áp đặt thứ ngôn ngữ nào trong chính sách cai trị người Việt.
Trong cuốn sách “Chữ, văn Quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc” do nhà xuất bản Nam Sơn in tại Sài Gòn 1974, ở trang 59, tác giả Nguyễn Văn Trung (1) có viết: “Trong con mắt của thực dân, chữ Quốc ngữ chỉ là thứ chữ bình dân, không phải thứ chữ của văn hóa, chữ Pháp, chữ Nho mới là chữ văn hóa …”
Vào thời điểm đó , người Pháp cũng không muốn dùng chữ Hán, chữ Nôm để áp đặt lên việc cai trị người Việt Nam, đơn giản vì đó là một thứ chữ quá khó học, bản thân người Pháp còn thấy khó hơn. Đó là chưa nói đến việc dùng chữ Hán, chữ Nôm sẽ tiếp tục để người dân bản xứ bị ảnh hưởng, chi phối bởi nền văn hóa Trung Hoa, tạo thành sự cạnh tranh với tư tưởng cai trị của thực dân Pháp. Vậy, sẽ phải là tiếng Pháp để thực hiện chủ trương đô hộ?! Đương nhiên họ muốn phải là tiếng Pháp.
Emonie, một quan chức của Chính phủ thuộc địa đã từng trình bày tham luận trước bộ máy cầm quyền của thực dân Pháp năm 1898, khẳng định: chúng ta hãy trả lại cho họ (tức người dân Annam) tất cả, chúng ta chỉ cần đặt tiếng Pháp là Quốc ngữ thôi, có vậy mới hy vọng biến Annam thành một nước Pháp ở phương Đông và hoàn thành sứ mạng của kẻ chinh phục, nếu không, chỉ 50 năm nữa, sẽ chẳng có người bản xứ nào nghĩ đến chúng ta cả! (2)
Vào giữa thế kỷ 17, các giáo sỹ phương Tây (3) đã xâm nhập vào Việt Nam với mục đích truyền giáo. Nhờ sự có mặt của họ, nên họ cũng chính là những người đã nhận thức và xác định sự bất hợp lý trong cuộc sống văn hóa của cộng đồng người Việt khi chứng kiến: vì sao người Việt nói một kiểu và lại viết một kiểu? Từ thực tiễn này, các giáo sĩ đa quốc gia đã nghĩ đến việc để thuận lợi cho GIAO TIẾP PHỔ CẬP RỘNG RÃI giữa họ và người dân bản xứ, để giúp cho việc TRUYỀN GIÁO có hiệu quả, họ đã tìm cách phiên âm tiếng nói của người dân bản xứ (người Việt) và ghi lại bằng ký tự theo chữ cái Latin (a, b, c,…) và rồi từ đây đã hình thành chữ Việt như hiện nay chúng ta đang sử dụng (ảnh 2 )
Nguồn gốc chữ Việt

Vậy nhưng họ đã không làm được điều này. Vào hoàn cảnh lịch sử lúc đó, mặc dù người Việt buộc phải dùng chữ Hán trong giao dịch hành chính để quản lý xã hội, nhưng hơn 90% dân số không biết đọc, cùng với tâm lý ghét Tây trắng, vì Tây trắng là bọn xâm lược. Cuối cùng, họ chỉ còn một giải pháp, đó là: dùng tiếng Việt đã được Latin hóa từ thế kỷ 17. Song, thật đáng tiếc, vì tính từ khi hình thành tiếng Việt theo mẫu tự Latin ở giữa thế kỷ 17, thứ chữ mới này TUYỆT NHIÊN KHÔNG ĐƯỢC PHỔ CẬP, chính xác là KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN CHÍNH THỨC Ở BẤT CỨ ĐÂU do hai nguyên nhân chính:
1) Các nhà truyền giáo chỉ có thể đưa vào sử dụng trong địa hạt của nhà thờ và dùng ở nội bộ những người theo Công giáo có học thức ở giáo xứ đó.
2) Xã hội Việt Nam lúc đó là xã hội của Phật giáo vốn mang trong mình một mặc cảm: chữ Việt có ký tự Latin là của Công giáo, mà Công giáo là của Tây trắng, mà Tây trắng tức là bọn xâm lược. Mà khi đã không được phổ cập, tự thân nó cũng sẽ không được mài dũa và hoàn thiện, nên càng khó phổ cập. Cứ vậy, thứ chữ Việt được các giáo sỹ phương Tây sáng tạo ra suốt 250 năm không “lớn” nổi. (Thứ chữ ông Đắc lộ "tạo" ra : ảnh 3, 4, 5, 6)
Thứ chữ ông Đắc lộ "tạo" ra

Thứ chữ ông Đắc lộ "tạo" ra

Thứ chữ ông Đắc lộ "tạo" ra


Phần II : Nguyễn Văn Vĩnh , ông là ai?

-------------------------
NGUYỄN VĂN VĨNH chỉ là 1 thanh niên xuất thân từ 1 gia đình nông dân nghèo tại Thường Tín - Hà Đông - Hà Nội.
Người thanh niên đó đã may mắn có cơ hội học tập từ khi còn nhỏ, là 1 đứa trẻ chăn bò ngoài bãi Sông Hồng, được nhận vào làm công việc kéo quạt mát cho một lớp học của người Pháp dạy các ông tú (Tốt nghiệp THPT), các cậu cử (Tốt nghiệp đại học) học làm làm phiên dịch tại trường Hậu bổ, đóng tại đình làng Yên Phụ, Hà Nội (1890). Nhờ môi trường nơi mình làm thuê để học lỏm, tuy không được là học viên chính thức, nhưng với ảnh hưởng tự nhiên, cộng với bộ óc khác người, năm 1896, sau hai lần thi, Nguyễn Văn Vĩnh đã đỗ thủ khoa của trường.

Phần III :
Lòng nồng nàn yêu nước, sự nghiệp và cống hiến của ông cho Tổ quốc.

----------‐-------

Tuy 15 tuổi còn quá nhỏ để trở thành công chức, nhưng ông đã được đặc cách làm phiên dịch cho Tòa sứ Lào Cai. Từ Tòa sứ Lào Cai, ông chuyển về Hải Phòng, rồi Bắc Giang, Bắc Ninh. Năm 1906 Nguyễn Văn Vĩnh là thư ký của Tòa Đốc lý Hà Nội và cũng là năm ông gặp chí sĩ Phan Châu Trinh.
Ông bắt đầu nổi danh sau khi dịch xuất sắc từ tiếng Pháp “LETTRE DE PHAN CHU TRINH AU GOUVERNEUR GÉNÉRAL EN 1906”, ngày 15 tháng 9 năm Thành Thái thứ XVIII (1906) ra tiếng Quốc ngữ (4)

Năm 1904 xuất hiện phong trào Đông du ở miền Trung do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ảnh hưởng của Đông du đã sinh ra những yếu nhân, và những yếu nhân này đã khởi xướng ra phong trào mới: Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, 1907, do Phan Châu Trinh chủ xướng.

Đây là 1 cuộc cách mạng văn hóa toàn diện tại đất nước ta, mang tính rộng khắp đối với dân chúng về mọi mặt trong sinh hoạt, học tập, tư duy, phong tục, lối sống và ứng xử trong xã hội. Nhờ có trào lưu xã hội này mà nó đã quy tụ được số lượng đông đảo các chí sỹ nổi danh đương thời ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đồng lòng với mục tiêu chiến lược “khai dân trí"

Nguyễn Văn Vĩnh lúc này mới 25 tuổi, sau 10 năm học tập trong môi trường Pháp văn, tiếp cận với hệ thống văn bản tiếng Pháp, sách báo và các ấn phẩm tiếng Pháp, chắc chắn đã tạo cho ông những khái niệm, kiến thức cơ bản về những nguyên lý của ngữ pháp, cấu trúc của một đoạn văn, thành phần của một câu văn, không phải chỉ trong tiếng Pháp. Cuộc đời 10 năm làm công chức (từ lúc 15 tuổi đến 25 tuổi), Nguyễn Văn Vĩnh đã kịp học và sử dụng thành thạo cả tiếng Anh và tiếng Hán-Nôm.
1 phần nhờ bộ óc thông minh thiên bẩm
1 phần vì nhu cầu của công việc hằng ngày trong các công sở nơi Nguyễn Văn Vĩnh lao động
nhưng chắc chắn chủ yếu đến từ lòng yêu nước và say mê văn hóa như một thiên hướng định mệnh.
Ông muốn lấy văn học là phương tiện thứ nhất để quảng bá sự tiện lợi của chữ Quốc Ngữ, khích lệ người dân theo học thứ chữ này, từ đó giành lấy VỊ TRÍ ĐỘC TÔN TRONG VĂN HÓA VIỆT (hoàn toàn không còn lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc và Pháp ) làm cơ sở cho cuộc cách mạng khai dân trí, đúng theo con đường chính trị mà Phan Châu Trinh mong muốn.
Ông tham gia Đông Kinh nghĩa thục từ những ngày đầu tiên mở màn, ông đã giảng dạy môn tiếng Pháp và tiếng Việt, đồng thời KHỞI ĐẦU CHO VIỆC SỬ DỤNG CHỮ QUỐC NGỮ TẠI VIỆT NAM vì sự tiện lợi và tính ưu việt của nó, nhận làm vai trò diễn thuyết (thực chất là giới thiệu bộ môn hùng biện) những đề tài hoàn toàn mới lạ trong xã hội như thay đổi phong cách ăn mặc, lên án các hủ tục làm nghèo đi cuộc sống, bài xích những thói hư tật xấu trong sinh hoạt hằng ngày…

Ngày 4 tháng 8 năm 1907, Nguyễn Văn Vĩnh đã đứng ra thành lập Hội dịch sách, hy vọng các tác phẩm dịch sẽ đem đến cho công chúng sự hiểu biết mới mẻ và mở rộng tầm hiểu biết của đồng bào An Nam đối với thế giới bên ngoài.

Nguyễn Văn Vĩnh cho ra đời tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Bắc kỳ - Đăng cổ Tùng báo (5) - số đầu tiên ra ngày 28/3/1907 ở Hà Nội với lời tâm sự nguyên văn : “…Nước Nam xưa nay vẫn có tiếng nói, mà tiếng Annam lại hay được một điều là cả nước nói có một thứ tiếng, chữ Mán, Mọi ở nơi rừng núi không kể. Nhưng vốn chỉ có tiếng nói, không có chữ viết, đến khi học chữ Tàu rồi mới lấy chữ Tàu ghép ra thành một lối riêng, gọi là chữ Nôm. Chữ Nôm tuy viết quấy quá cũng thành ra dạng chữ, nhưng không có mẹo mực gì, ai muốn viết thế nào thì viết, thường phải cao đoán mới đọc được thông.
Bây giờ nhờ có người phương Tây đến, bày ra chữ Quốc ngữ, chắp vần theo như chữ các nước phương Tây; có mẹo mực, ba là ba, bốn là bốn, không thể sai được mà học dễ biết là bao nhiêu! Sáng ý thì chỉ vài ngày, ngu đần thì trong một tháng cũng phải thông…"
Ông lặp lại trên báo L’Annam Nouveau trong những năm 1931 -1936 như sau : "Nước Nam ta bị mất vì những trí thức nho học chỉ biết làm văn chương Tàu. Chúng ta cố gắng đừng để thành những trí thức mới chỉ biết làm văn chương Tây”

Nguyễn Văn Vĩnh cũng chính là người Việt Nam đầu tiên dịch gần 30 tác phẩm văn học, triết học, khoa học, chính trị học của các tác giả lớn của Pháp và thế giới ra tiếng Việt. Trong đó có những tác phẩm kinh điển như “Những người khốn khổ” của Victor Hugo 1926, “Ba người lính ngự lâm pháo thủ” của A. Dumas, “Người bệnh tưởng” của Molière, Thơ ngụ ngôn của La Fontaine vv…

Chỉ riêng trong dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine thôi đã thấy ông là một nhà văn tài hoa trong những câu thơ dịch táo bạo và sáng tạo. Cho đến nay, Nguyễn Văn Vĩnh vẫn là người dịch thành công nhất Truyện Kiều ra tiếng Pháp từ chữ Nôm 1913
Cũng như văn xuôi, Nguyễn Văn Vĩnh đã rất tài tình khi dịch thơ La Phongten. Những bản dịch ngụ ngôn của Nguyễn Văn Vĩnh đã phá vỡ niêm luật của thơ truyền thống và là những nhóm lửa đầu tiên, mầm mống báo hiệu cho phong trào Thơ mới hàng chục năm sau mới xuất hiện…
Ông cũng là tác giả của bản dịch “Tam Quốc chí diễn nghĩa” - 1909, từ chữ Nôm ra Quốc ngữ (cùng với Phan Kế Bính 1875 -1921 )
Với vở kịch của Molière do chính ông dịch và đưa lên sân khấu, Nguyễn Văn Vĩnh cũng chính là người khai sinh sân khấu kịch nói ở Việt Nam. Thành công của ông đã mở ra cho tác giả Nguyễn Đình Long sau này viết kịch cho sân khấu Việt Nam.

Ông là 1 học giả đã viết rất nhiều, dịch rất nhiều và có vai trò quan trọng để làm cho tiếng Việt phổ biến như ngày nay trước khi nó chính thức được công nhận.
Cùng với các đồng sự thông thái của mình như Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Hoàng Tăng Bí, Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc… ông tạo ra những cuốn sách in bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Bắc kỳ và bằng mọi cách, đưa được ánh sáng văn hóa đến đồng bào mình, đưa cái chữ dễ học này đến người dân An Nam bằng con đường báo chí và xuất bản.
Tháng 11 năm 1907, Nhà cầm quyền đã quyết định dặp tắt Đông Kinh Nghĩa Thục, họ bắt bớ, bỏ tù, thậm chí tử hình một số các thành viên của Phong trào. “Đăng Cổ Tùng Báo” đương nhiên phải chấm dứt hoạt động. Sự nghiệp khai dân trí có quy mô lớn đầu tiên của đất nước bị phá bỏ.
Phẫn nộ và bất mãn đến cao độ, ngày 11.12.1907, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết văn bản gửi đến ngài Hauser là Đốc lý Hà Nội phản đối gay gắt chính quyền đương thời nói rằng
"lời phát biểu của tôi là dành cho chữ quốc ngữ, tôi đề nghị lấy nó làm chữ viết dân tộc và là cơ sở cho nền giáo dục bản xứ…đó là tất cả tội của tôi. Tôi nhắc lại là vì tôi đã muốn cải cách giáo dục mà không nhờ đến chính quyền…"
Đau xót vì lý tưởng vừa được thực hiện đã bị Nhà cầm quyền quân phiệt, độc tài dập tắt, Nguyễn Văn Vĩnh đã lớn tiếng kết án hành vi của những kẻ chỉ đạo:
“… việc đóng cửa Đông kinh Nghĩa thục là một sự trả thù hèn hạ… tôi xin phép được nói là biện pháp vừa thi hành là vô chính trị.” (6)

Sáu năm sau (1913) lại xuất hiện một cơ hội khác, nhưng lần này là cơ hội hoàn toàn mang tính chính trị, đó là việc bùng phát liên tiếp những mặt trận đấu tranh vũ trang chống Pháp ở cả ba miền. Để ngăn chặn và khống chế khuynh hướng này, chính quyền thực dân đã buộc lòng phải thực hiện giải pháp tuyên truyền, nhưng sẽ tuyên truyền bằng phương thức nào, ngôn ngữ nào?
Nguyễn Văn Vĩnh cũng thực sự bức bách vì suốt sáu năm liền, mặt trận khai dân trí và phổ cập chữ Quốc Ngữ hòng soán ngôi của chữ Hán hầu như dậm chân tại chỗ. Nguyễn Văn Vĩnh đã dốc lòng dịch các tác phẩm văn học kinh điển trong tủ sách tinh hoa của nhân loại ra tiếng Việt, nhưng sẽ được phổ biến bằng cách nào? Một mặt, ông dẫn người dân tới sự hấp dẫn bởi chữ Quốc Ngữ khi đọc các tác phẩm dịch. Mặt khác, ông chứng minh trước những tư tưởng bảo thủ và hủ Nho trong xã hội biết rằng: chữ Quốc Ngữ đủ sức chuyển tải và mô tả những tinh hoa trí tuệ của nhân loại chứ hoàn toàn không thể như quan điểm của một vị giáo sư (1) viết ở Sài Gòn 1974 rằng: “…chữ Quốc ngữ chỉ là thứ chữ bình dân, không phải thứ chữ của văn hóa, chữ Pháp, chữ Nho mới là chữ văn hóa..”

Ngày 15.5.1913, F.H.Schneider và Nguyễn Văn Vĩnh quyết định cho ra mắt tờ báo xuất bản hoàn toàn bằng tiếng Việt đầu tiên tại phía Bắc Việt Nam mang tên “Đông Dương Tạp Chí”.
Các chuyên gia nghiên cứu tại Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia I, xác định “Đông Dương Tạp Chí” là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam dạy người dân cách học, cách làm văn bằng chữ Quốc Ngữ. Với vai trò là Chủ bút, Nguyễn Văn Vĩnh đã chứng minh khả năng tiềm ẩn và sự dần hoàn thiện của thứ chữ viết theo mẫu tự La Tinh bằng việc dịch sang chữ Quốc Ngữ hàng loạt các tác phẩm văn học kinh điển, các tư tưởng triết học của các danh nhân văn hóa Thế giới.
Không dừng lại đó, vào ngày 7.1.1915, ông Nguyễn Văn Vĩnh tiếp tục chủ bút tờ báo "Trung Bắc Tân Văn" .
Năm 1917, một trong những gương mặt quan trọng của Tòa soạn “Đông Dương Tạp Chí” là Phạm Quỳnh (1890-1945) đã tách ra và tạo dựng tờ “Nam Phong Tạp Chí”. Đến năm 1919, Nguyễn Văn Vĩnh đã chính thức phát hành tờ “Trung Bắc Tân Văn” ra hàng ngày (Nhật báo). Đây là NHẬT BÁO ĐẦU TIÊN trong lịch sử báo chí ở Việt Nam. Cùng năm này đã xuất hiện một tờ báo đầu tiên ở Việt Nam chuyên về giáo dục và có tên là “Học báo”, do Nguyễn Văn Vĩnh là Chủ nhiệm và Chủ bút là Trần Trọng Kim (1883-1953).
Quá trình xây dựng, phổ biến và hoàn thiện chữ Quốc Ngữ với cơ sở truyền thông là báo chí ở thập kỷ 10 trong thế kỷ XX, thứ chữ viết mới này đã thật sự đi vào cuộc sống tinh thần của người Việt, nó đã trở thành phần hồn của một dân tộc. Trước những cố gắng bền bỉ và xuất sắc của Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các đồng sự của mình là các nhà yêu nước, không phân biệt là phái Tân học hay phái Cựu học, cuối cùng, năm 1919, vua Khải Định (1885-1925) đã ra chỉ dụ bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho. Ngày 18.9.1924, Toàn quyền Đông Dương Martial Henri Merlin (1860-1935) ký quyết định đưa chữ Quốc Ngữ vào dậy từ cấp tiểu học trên toàn cõi Việt Nam.
Vậy là sau gần ba thế kỷ, tính từ khi có cuốn từ điển đầu tiên Việt-Bồ-La năm 1651, chữ Quốc ngữ đã chính thức trở thành chữ viết quốc gia của dân tộc Việt nam. Từ góc độ lịch sử, sự kiện này là thành quả kỳ vĩ của một nền văn hóa ở một quốc gia và đối với một dân tộc. Nó là sự biến thiên hiếm hoi của trí tuệ con người, bất chấp nguồn gốc, ý tưởng ban đầu khi nó hình thành. Thành quả của một cuộc cách mạng bao giờ cũng là sự đóng góp của cả một cộng đồng, nhưng vai trò của kẻ tiên phong, kẻ dấn thân một cách kiên gan và thông tuệ, thì không thể không nhớ ơn Nguyễn Văn Vĩnh !

Để có chỗ giới thiệu các sản phẩm đó với người dân, ông vay tiền ngân hàng năm 1926, thành lập nhà sách Âu Tây Tư Tưởng ở số 1-3 phố Hàng Gai (Nhìn ra Bờ Hồ Hoàn Kiếm). Trong một bài tâm sự, Nguyễn Văn Vĩnh mơ ước rằng: Nhà sách này sẽ là Trung tâm Bách hóa văn hóa, một nơi người dân có thể tìm thấy tất cả những gì liên quan đến văn hóa.

Nguyễn Văn Vĩnh đã quyết tâm nghĩ và thực hiện việc cải tiến chữ Quốc Ngữ khi bị kỹ thuật điện tín quốc tế chối bỏ do tiếng Việt có quá nhiều dấu và âm sắc, và ông đã thành công
Lần đầu tiên, tiếng Việt được chuyển qua điện tín theo nguyên tắc a a = â, a w = ă, u w = ư…. Và đó là năm 1927.

Thành công trong việc cải tiến chữ Quốc Ngữ dùng trong nghành bưu điện đã “xui khiến” Nguyễn Văn Vĩnh còn quyết tâm hơn trong việc xây dựng chữ Quốc Ngữ Cải Tiến (Le Quốc-Ngữ Modifié).
Nguyên lý của máy in linotype, phát minh khoa học của thế giới ra đời năm 1886, thay thế hệ monotype, không thể chứa hết 127 mẫu chữ cái khác nhau của chữ Quốc Ngữ, đồng thời, máy đánh chữ nhập từ châu Âu về Việt Nam không có dấu…
Những thực tế này đã khích lệ Nguyễn Văn Vĩnh nghĩ ra một mẫu chữ cải tiến nhằm thuận lợi hơn trong việc hòa nhập với công nghệ in ấn của Thế giới. Một thí dụ: Năm dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng được Nguyễn Văn Vĩnh thay thế bằng: q, f, j, z, w và được đặt phía sau của từ.
Nguyễn Văn Vĩnh tự tin, miệt mài đi trên trên con đường mới lạ này, để đến một ngày, mỗi người dân sẽ tự đòi hỏi, phải có gì đó để đọc. Đọc rồi để biết làm người thì có quyền gì. Chính tư tưởng, hành động mang tính dân tộc của Nguyễn Văn Vĩnh đã khiến người Pháp nhận ra sự nguy hiểm của ông đối với chế độ thống trị của họ ở nước ta bấy giờ, nên đã ra một cái lệnh kỳ quặc là cấm ông làm báo chữ quốc ngữ
Tờ báo với thứ chữ viết dễ học đó đã trở thành mối đe dọa với chính kẻ quyết định cho tờ báo ra đời. Họ sợ, đến một ngày, nó sẽ giúp những kẻ bị cai trị hiểu được vì sao mình nghèo? Vì sao mình khổ? Và sẽ lộ diện những bộ mặt xâm lược sau đó chỉ chuyên hà hiếp, bóc lột và dối trá của những kẻ cầm quyền thực dân Pháp
Năm 1930, Chính quyền Thực dân không chịu đựng nổi vai trò và ảnh hưởng của Nguyễn Văn Vĩnh, họ quyết định tịch thu giấy phép xuất bản báo chí và sách bằng chữ Quốc Ngữ. Tịch thu nhà in Trung Bắc Tân văn. Họ đã thực hiện việc xóa bỏ những thành công đang dần thành hiện thực của Nguyễn Văn Vĩnh trong dự án Chữ Quốc Ngữ Đổi Mới, bằng cách cho Nhà in Viễn Đông (IDEO) xuất bản vội vàng một cuốn sách in bằng chữ Quốc Ngữ cải tiến theo kỹ thuật in Linotype với khổ sách 10cm x 14cm, dày 146 trang có tựa đề “Hướng dẫn đối thoại Pháp-Nam”. Lấy tên của linh mục R. P. Barbier là tác giả. Chính quyền Thực dân đã vội vã đến mức lập tức bắt Nhà in Viễn Đông phải đăng ký bản quyền sáng chế phát minh và yêu cầu Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp chứng nhận.
Phản ứng trước thực tế này, ngày 29.5.1932, trên số báo “L’Annam Nouveau-Nước Nam mới” số 139, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết bài “Cuốn sách đầu tiên được in ra bằng Chữ Quốc Ngữ đổi mới- Le premier livre imprimé en Quoc-ngu ré formé”, phân tích chi tiết những bất hợp lý trong nội dung của cuốn sách và thẳng thắn lên án cách hành xử mang tích thủ đoạn của Chính quyền. Thực chất, đây là sự cướp công với mục đích dập vùi, đẩy Nguyễn Văn Vĩnh đến chỗ phải đầu hàng.

Đầu năm 1931, đứng trước hàng loạt những khó khăn và khủng hoảng do Nhà cầm quyền Thực dân dồn ép, Nguyễn Văn Vĩnh bị chặt đứt tất cả các cánh tay trong sự nghiệp. Nhưng Nguyễn Văn Vĩnh đã không lùi bước.

Thực dân Pháp cấm thành lập các đảng phái chính trị. Cấm Nguyễn Văn Vĩnh viết và xuất bản các ấn phẩm bằng chữ Quốc Ngữ, họ ra ba điều kiện rất rõ ràng nếu không muốn bị phá sản với Nguyễn Văn Vĩnh gồm:

– Chấm dứt việc viết.

– Chấm dứt việc phê phán chính quyền và triều đình Huế.

– Chấp nhận làm thượng thư cho triều đình Huế.

Nguyễn Văn Vĩnh chống lại những đòi hỏi này của Chính phủ Thuộc địa. Bất chấp những khó khăn toàn diện trong cuộc sống, ông đứng ra tổ chức thành lập tờ báo “L’Annam Nouveau-Nước Nam mới” (ảnh 7 ,8) viết bằng tiếng Pháp, với các mục đích:
Nguyễn Văn Vĩnh chống lại những đòi hỏi này của Chính phủ Thuộc địa

Nguyễn Văn Vĩnh chống lại những đòi hỏi này của Chính phủ Thuộc địa

– Tiếng Pháp không phải xin phép.

– Tiếp tục vận động xã hội chống chế độ Bảo hộ và Quân chủ Lập hiến.

– Xây dựng và kêu gọi xã hội và chính quyền đi theo học thuyết Trực trị.

– Tiếp tục phổ biến những kiến thức xã hội tiến bộ về khoa học, văn hóa, chính trị, ngoại giao, thương mại, công và nông nghiệp….

Năm 1935, Thực dân Pháp đã hết kiên nhẫn. Một lần nữa, để hạ gục Nguyễn Văn Vĩnh, họ đã sống sượng đưa ra những sự áp đặt để ông lựa chọn như sau:

– Chấp nhận làm quan cho triều đình Huế.

– Không chấp nhận điều kiện một, sẽ bị tịch biên toàn bộ tài sản để phát mại và buộc phải trả nợ những khoản vay cho dù chưa đến hạn thanh toán và bị kết án phá sản. Hoặc phải sang Lào tìm vàng để trả nợ Chính phủ.

– Phải đi tù.

Là một người liêm sỉ, chính trực, Nguyễn Văn Vĩnh đã bác bỏ tất cả các điều kiện nghe như là sự ưu ái của Nhà cầm quyền, ông từ chối cả việc Nhà nước Pháp hai lần muốn tặng ông huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Ông chấp nhận đi sang Lào theo sự sắp xếp của Chính phủ Thuộc địa như một giải pháp để trả món nợ khổng lồ ông đã vay trước đó liên quan đến hoạt động xuất bản và phát triển văn hóa.

Tháng Ba năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh từ biệt gia đình và người thân đến một nơi hoàn toàn heo hút, xa lạ. Không một ai nghĩ rằng, sự nghiệp đồ sộ của ông sẽ chấm dứt trên một con thuyền độc mộc lênh đênh trên dòng sông Sê Băng Hiêng (Nhánh của sông Sê Pôn, miền Nam nước Lào), trừ Nhà cầm quyền Thực dân..... 😊

“NƯỚC NAM TA MAI SAU NÀY, HAY DỞ CHỮ QUỐC NGỮ"

(Lời nói đầu của tác giả trong cuốn "Tam quốc chí diễn nghĩa" )

Đây là 1 trong những minh chứng cuối cùng tôi muốn nhắc lại, để cho thấy nhận thức rõ ràng, lòng yêu nước nồng nàn và lý tưởng cao quý của Nguyễn Văn Vĩnh đối với chữ Quốc Ngữ ./.

******************
Chú thích
(1)
Nguyễn Văn Trung là 1 giảng viên đại học của chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau 1975 di tản và định cư tại Canada

(2) Giáo sư Nguyễn Huệ Chi tại hội thảo “Nguyễn Văn Vĩnh và hành trình chữ Quốc ngữ“ do Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh và NXB Tri Thức tổ chức tại Hà Nội ngày 17/2/2012

(3) Các giáo sỹ phương Tây gồm nhiều quốc tịch như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italia,…. ( trong đó ông đắc lộ là 1 trong những người gom góp những con chữ đó tạo thành 1 quyển, gọi là Từ Điển Pháp - Bồ
- La)

(4)
Chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926), nhà yêu nước được sinh ra tại Quảng Nam, miền Trung Việt Nam. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng (Hàm vị dưới tiến sĩ). Năm 1906, do bất bình gay gắt với thực trạng của xã hội Việt Nam, ông đã viết bản kiến nghị bằng Hán văn mang tên: “Đầu Pháp Chính phủ thư” gửi cho Toàn quyền Đông Dương Jean Baptiste Paul Beau. Nội dung kiến nghị đòi phía Pháp phải cải cách xã hội, thay đổi chính sách cai trị, hủy bỏ nền giáo dục phong kiến, chấm dứt lối dào tạo khoa cử và dạy người dân học chữ Quốc Ngữ.

(5)
Tờ báo chia đôi, ½ là Hán -Nôm , ½ là Quốc Ngữ, có nội dung riêng rẽ.
Tờ báo này chỉ có thời gian ngang bằng phong trào Đông Kinh nghĩa thục (9 tháng )
(6)
Bức thư Nguyễn Văn Vĩnh gửi cho Hauser hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp CAOM ở thành phố Aix en provence và được chủ nhiệm trang web tannamtu chụp lại bằng máy ảnh.

P/s :
Cảm ơn các bạn đã đọc toàn bộ bài viết này, tôi chắc rằng các bạn đã tự có câu trả lời cho bản thân xem ai mới là người chúng ta nên tri ân và biết ơn ? Có phải vị linh mục đã bị Chúa Nguyễn trục xuất khỏi Việt Nam năm 1645 hay không?
Người Việt Nam xin hãy nhớ tới vị học giả Nguyễn Văn Vĩnh !

2 Nhận xét

Mới hơn Cũ hơn